Pháp luật  về góp vốn thành lập doanh nghiệp

Rate this post
Quy định pháp luật  về góp vốn thành lập doanh nghiệp và những vướng mắc phát sinh
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 5
3. Phạm vi và nhiệm vụ của đề tài 6
4. Phương pháp nghiên cứu 6
5. Kết cấu của đề tài 6
CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ GÓP VỐN THEO QUY ĐỊNH CỦAPHÁP LUẬT VIỆT NAM……………………………………………..7
1.1. Khái niệm vốn, góp vốn, bản chất của góp vốn theo quy định pháp luật Việt Nam 7
1.1.1. Vốn và góp vốn 7
1.1.1.1. Khái quát về vốn doanh nghiệp 7
1.1.1.2. Khái niệm góp vốn 7
1.1.2. Bản chất của góp vốn 8
1.1.2.1. Về phương diện kinh tế 8
1.1.2.2. Về phương diện pháp lý 9
1.2.1. Chủ thể góp vốn thành lập doanh nghiệp 9
1.2.1.1. Chủ thể có quyền góp vốn 9
1.2.1.2.Chủ thể bị cấm tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp 10
1.2.2. Về hình thức góp vốn và cách thức góp vốn 11
1.2.2.1. Về hình thức góp vốn 11
1.2.2.2. Cách thức góp vốn: 14
1.2.3. Thủ tục góp vốn thành lập doanh nghiệp 15
1.2.3.1. Định giá tài sản góp vốn: 15
1.2.3.2. Chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn 16
1.2.3.3. Cấp giấy chứng nhận góp vốn: 17
1.3.3.4. Chuyển nhượng phần góp vốn 20
1.3.3.5. Chứng từ đối với tài sản góp vốn 24
1.3.3.6. Quy định về rút vốn trong công ty 25
1.3.3.7. Hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp 27
1.3.4. Góp vốn và tư cách thành viên 29
CHƯƠNG 2 : THỰC HIỆN GÓP VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN DU LỊCH SÀI GÒN – BÌNH CHÂU 31
2.1. Tổng quan về góp vốn và cổ đông góp vốn của công ty 31
2.1.2. Về cổ đông công ty 33
2.2. Thực hiện pháp luật về góp vốn tại công ty Cổ phần du lịch Sài Gòn – Bình Châu 33
2.2.1. Cổ đông công ty 33
2.2.1.1. Điều kiện xác lập tư cách cổ đông công ty 33
2.2.1.2. Phân loại cổ đông trong công ty 34
2.2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của cổ đông công ty 35
2.2.1.4. Các cổ đông thiểu số của công ty 37
2.2.2. Tài sản góp vốn vào công ty 40
2.2.2.1. Góp vốn bằng quyền sử dụng đất 40
2.2.2.2. Góp vốn bằng tiền Việt Nam 41
2.2.2.3. Góp vốn bằng tài sản 41
2.2.3. Quy trình góp vốn 42
2.2.3.1. Xác định đối tượng góp vốn 42
2.2.3.2. Xác định tài sản góp vốn 42
2.2.3.3. Định giá tài sản góp vốn 43
2.2.3.4. Cấp giấy chứng nhận góp vốn 43
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN DU LỊCH SÀI GÒN – BÌNH CHÂU 45
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp………………………………………………………………………………………45
3.2. Giải pháp về cơ chế thực hiện pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp tại Công ty cổ phần du lịch Sài Gòn – Bình Châu 46
3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật của cổ đông công ty. 46
3.2.2. Nâng cao năng lực quản lý vốn góp của công ty 46
3.2.3. Nâng cao văn hóa doanh nghiệp 47
KẾT LUẬN 50
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Ký hiệu
1. Bà Rịa – Vũng Tàu : BR-VT
2. Công ty cổ phần : CTCP
3. Công ty hợp danh : CTHD
4. Công ty trách nhiệm hữu hạn : CTTNHH
5. Doanh nghiệp : DN
6. Hội đồng quản trị : HĐQT
7. Luật Dân sự : LDS
8. Luật Doanh nghiệp : LDN
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
      Thực hiện quan điểm đổi mới kinh tế của đất nước theo quan điểm của Đảng và thực hiện hội nhập với thế giới để phù hợp với quy luật khách quan trong điều kiện hiện nay, Nhà nước ta đã và đang ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật kinh doanh nói chung và pháp luật về góp vố thành lập doanh nghiệp nói riêng. Tuy nhiên pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp vẫn còn nhiều bất cập: Quy phạm trong các văn bản chưa cụ thể rõ ràng; văn bản quy phạm pháp luật còn chồng chéo… dẫn đến áp dụng luật cho các doanh nghiệp lúng túng, không hiểu yêu cầu của quy phạm pháp luật.
    Trên thực tế qua nghiên cứu tại Công ty cổ phần du lịch Sài gòn – Bình Châu cho thấy việc góp vốn thành lập doanh nghiệp giữa các cổ đông công ty đang còn nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp như chưa nắm được các quy định về hình thức góp vốn nhất là góp vốn nhất là góp vốn bằng quyền sử dụng đất, chưa có sự thống nhất về loại góp vốn, vốn góp thực tế … Hiện tại công ty khi thực hiện quy định của Luật doanh nghiệp 2014 công ty đang trông chờ nhờ vào sự tư vấn của các chuyên gia pháp lý về vấn đề góp vốn tại doanh nghiệp.
    Từ các lý do nêu trên tác giả chọn đề tài “Quy định pháp luật  về góp vốn thành lập doanh nghiệp và những vướng mắc phát sinh”  làm đề tài tốt nghiệp chuyên ngành luật kinh doanh, mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình để hoàn thiện hơn những hạn chế đã nêu trên mà yêu cầu cả lý luận và thực tiễn đang đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
– Về lý luận: đã có nhiều đề tài, bài viết nghiên cứu, hội thảo liên quan  pháp luật về vốn góp của doanh nghiệp, cụ thể:
+ Phạm Duy Nghĩa (1990), “Các khía cạnh Luật công ty và luật bảo vệ sở hữu trí tuệ của quá trình chuyển giao công nghệ quốc tế thong qua doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài” , Luận án PTS luật học, trong luận án  phân tích về vấn đề thỏa thuận góp vốn của công ty, nhất là các nguyên tắc trong hợp đồng góp vốn công nghệ vào doanh nghiệp.
+ Ngô Huy Cương (2004), “Hợp đồng góp vốn thành lập công ty” Luận án Tiến sĩ luật học. Luận án trình bày tổng quan và có hệ thống lý luận pháp luật về hợp đồng thành lập công ty
+ Phạm Anh Tuấn (2009), “Góp vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt Nam” Luận văn thạc sĩ luật học. Luận văn đã nghiên cứu các vấn đề pháp lý về vốn góp, hình thức vốn góp, thực trang về góp vốn ở Việt Nam.
+ Giáo trình chủ thể kinh doanh của trường Đại học luật TP Hồ Chí Minh…
3. Phạm vi và nhiệm vụ của đề tài
Đề tài nghiên cứu một phần lý luận pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp và thực tiễn góp vốn thành lập tại Công ty cổ phần du lịch Sài gòn – Bình Châu và mong muốn có những kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện hơn pháp luật góp vố thành lập doanh nghiệp và góp phần giúp Công ty cổ phần du lịch Sài gòn Bình Châu thực hiện tốt hơn việc góp vốn theo quy định pháp luật để hoạt động kinh doanh ngày càng hiệu quả hơn.
Với mục đích trên, nhiệm vụ đề tài:
– Nghiên cứu lý luận của pháp luật Việt Nam về khái niệm vốn góp, tài sản góp vốn, hình thức góp vốn.
– Nghiên cứu thực tiễn, phân tích những ưu điểm và hạn chế, tìm hiểu nguyên nhân thông qua thực tập tại Công ty cổ phần du lịch Sài gòn – Bình Châu.
– Kiến nghị và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và khắc phục hạn chế trong thực tiễn .
4. Phương pháp nghiên cứu
– Phương pháp chung: Dựa vào quan điểm biện chứng duy vật và duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới kinh tế
– Phương pháp cụ thể: Phương pháp phân tích, đánh giá, thống kê, tổng hợp
5. Kết cấu của đề tài
Chương 1: Khái quát lý luận về góp vốn theo quy định của pháp luật Việt Nam
Chương 2: Thực hiện góp vốn thành lập doanh nghiệp tại Công ty Cổ phần du lịch Sài Gòn -Bình Châu
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp tại công ty cổ phần du lịch Sài Gòn – Bình Châu
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ GÓP VỐN THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái niệm vốn, góp vốn, bản chất của góp vốn theo quy định pháp luật Việt Nam
1.1.1. Vốn và góp vốn
1.1.1.1. Khái quát về vốn doanh nghiệp
Để tiến hành một chu kỳ sản xuất, kinh doanh thì đều cần có vốn. Vậy vốn doanh nghiệp là gì? Tại sao nó lại có vai trò quan trọng như thế đối với bất kỳ các doanh nghiệp hay một tổ chức cá nhân nào.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được hiểu và quan niệm là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu, là tiền, tài sản mà các thành viên hoặc cổ đông của công ty cùng nhau góp lại thành lập công ty, đưa công ty đi vào hoạt động
Khái niệm này không những chỉ ra vốn không chỉ là một yếu tố đầu vào quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất mà còn đề cập tới sự tham gia của vốn trong doanh nghiệp, trong cả quá trình sản xuất kinh doanh liên tục trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp.
Như vậy, vốn là yếu tố số một của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Có vốn các doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất kinh doanh, mua sắm các trang thiết bị hay triển khai các kế hoạch khác trong tương lai. Vậy yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp là họ cần phải có sự quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn có hiệu quả nhằm bảo toàn và phát triển vốn, đảm bảo cho các doanh nghiệp ngày càng phát triển và vững mạnh
1.1.1.2. Khái niệm góp vốn
Theo khoản 13, Điều 4, Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quy định: “Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập”.
Theo định nghĩa này, có thể hiểu: Góp vốn là việc các cá nhân cùng nhau góp chung tài sản (vật, tiền, giấy tờ có giá…) để tạo thành nguồn vốn của công ty. Có những công ty hoạt động theo những ngành nghề kinh doanh có điều kiện về vốn pháp định thì việc góp vốn cần phải đáp ứng được điều kiện về vốn.
  Ví dụ: Điều 10 Luật Kinh doanh Bất động sản 2014 quy định điều kiện về vốn pháp định của Công ty kinh doanh bất động sản là không được thấp hơn 20 tỷ đồng, trừ trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản quy mô nhỏ, không thường xuyên .
Theo Điều 35, Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về tài sản góp vốn:
1. Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.
2. Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn.
Theo quy định này: “Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kĩ thuật, các tài sản khác ghi trong điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty”. Những “tài sản khác” này có thể là vật, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” theo quy định tại Điều 163, Bộ luật dân sự năm 2005.
Như vậy, về nguyên tắc, mọi tài sản đều có thể trở thành tài sản góp vốn vào công ty nhưng một công ty có chấp nhận phần vốn góp không phải là tiền hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào nhu cầu về vốn và sử dụng vốn của công ty đó. Quy định của Luật doanh nghiệp rất phù hợp khi quy định cho phép điều lệ công ty chấp nhận các loại tài sản khác (ngoài các loại tài sản thông thường đã được pháp luật liệt kê) làm tài sản góp vốn khi nó hữu ích đối với hoạt động kinh doanh của công ty . Ngoài ra còn mở rộng tài sản góp vốn còn bao gồm các quyền tài sản: quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả,… đây là một bước tiến mới trong quy định về pháp luật doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Bản chất của góp vốn
1.1.2.1. Về phương diện kinh tế
Bản chất của giao dịch góp vốn là các thành viên, cổ đông của công ty dùng tài sản của mình đưa vào công ty để tiến hành sản xuất kinh doanh. Sau khi góp vốn vào công ty, các tài sản dùng để góp vốn sẽ thuộc quyền sở hữu chung của các thành viên, cổ đông trong công ty. Các thành viên dùng tiền, tài sản, quyền tài sản của mình ra để góp cùng các thành viên khác sẽ cùng nhau quản lý, cùng chịu trách nhiệm về khoản vốn góp đó.
1.1.2.2. Về phương diện pháp lý
Như đã nêu ở trên, “Góp vốn” là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp để tăng vốn điều lệ.
Pháp luật chỉ ra các thời điểm góp vốn vào doanh nghiệp đó là:
– Góp vốn để thành lập doanh nghiệp: Khi doanh nghiệp chưa ra đời, các thành viên, cổ đông sáng lập của doanh nghiệp thỏa thuận đưa tài sản của mình vào góp vốn tạo thành vốn điều lệ của doanh nghiệp. Khoản vốn này chính là nền tảng để đưa doanh nghiệp vào hoạt động kinh doanh.
– Góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp: Đó là trường hợp một doanh nghiệp đã ra đời, các thành viên, cổ đông của doanh nghiệp muốn tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp mình lên có thể thực hiện góp vốn. Tùy từng loại hình doanh nghiệp mà phương thức tăng vốn điều lệ diễn ra khác nhau.
Trên hết, việc góp vốn vào doanh nghiệp đạt được do sự thỏa thuận của các thành viên công ty và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
1.2. Quan hệ pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam
1.2.1. Chủ thể góp vốn thành lập doanh nghiệp
1.2.1.1. Chủ thể có quyền góp vốn
Theo khoản 3, Điều 18, Luật Doanh nghiệp 2014, Tổ chức, cá nhân có quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này, trừ trường hợp sau đây:
a) Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
b) Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
Việc chỉ quy định các trường hợp không được góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào một số loại hình doanh nghiệp như trên của Luật doanh nghiệp đã tạo ra được sự thống nhất trong khâu quản lý doanh nghiệp. Các đối tượng nêu trên không những không được thành lập, quản lý doanh nghiệp mà họ còn không được góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của doanh nghiệp – tức là không thể tham gia vào cả khâu hoạt động và khâu quản lý doanh nghiệp. Quy định này khiến các đối tượng nêu trên không tìm được sở hở của pháp luật để luồn lách, thu lợi bất chính. Tuy nhiên, có một vấn đề mà ta có thể đặt câu hỏi ở đây đó là: Ngoài các trường hợp được liệt kê ở trên thì còn có trường hợp nào khác mà cá nhân, tổ chức không được góp vốn, mua cổ phần hay mua phần vốn góp của doanh nghiệp hay không.
1.2.1.2.Chủ thể bị cấm tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp
So với đối tượng cấm tham gia thành lập và quản lý doanh nghiệp thì đối tượng góp vốn hẹp hơn, cụ thể: Theo quy định tại khoản 3, Điều 18, Luật Doanh nghiệp 2014:
a) Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
b) Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
Điều 20 Luật cán bộ, công chức 2008 quy định: “Ngoài những việc không được làm quy định tại Điều 18 và điều 19 của Luật này, cán bộ, công chức không được làm những việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sụ quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những việc khác theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền.”
Thực tế hiện nay không ít trường hợp lãnh đạo là cán bộ công chức tham gia góp vốn vào công ty hoạt động kinh doanh lĩnh vực mà mình quản lý. Vì vậy, pháp luật quy định như vậy nhằm hạn chế hiện tượng quan liêu, tham nhũng của những người lãnh đạo trong các cơ quan nhà nước. Bởi những đối tượng này là những người có quyền hành trong bộ máy nhà nước, có quyền uy khiến cấp dưới và nhiều người khác phải phục tùng. Nếu để họ góp vốn trong các ngành, lĩnh vực họ trực tiếp quản lý lại càng tạo cơ hội cho họ lợi dụng quyền hành để dùng việc công thực hiện mục đích tư, không đảm bảo yếu tố khách quan, công bằng trong việc kiểm tra, quản lý. Hơn nữa, pháp luật quy định như vậy cũng là để tăng cường vai trò, trách nhiệm của những người quản lý, để họ tập trung vào chuyên môn, không bị xao nhãng việc điều hành, quản lý nhà nước khi họ thực hiện hoạt động góp vốn kinh doanh trong doanh nghiệp.
Các chủ thể khác theo quy định của pháp luật:
Theo quy định của Luật phá sản 2014, điều 130: Cấm đảm nhiệm chức vụ sau khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản
1. Người giữ chức vụ Chủ tịch, Tổng giám đốc, Giám đốc, thành viên Hội đồng quản trị của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước bị tuyên bố phá sản không được đảm đương các chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào kể từ ngày doanh nghiệp 100% vốn nhà nước bị tuyên bố phá sản.
2. Người đại diện phần vốn góp của Nhà nước ở doanh nghiệp có vốn nhà nước mà doanh nghiệp đó bị tuyên bố phá sản không được đảm đương các chức vụ quản lý ở bất kỳ doanh nghiệp nào có vốn của Nhà nước.
3. Người giữ chức vụ quản lý của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản mà cố ý vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 18, khoản 5 Điều 28, khoản 1 Điều 48 của Luật này thì Thẩm phán xem xét, quyết định về việc không được quyền thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, làm người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời hạn 03 năm kể từ ngày Tòa án nhân dân có quyết định tuyên bố phá sản.
4. Quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này không áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản với lý do bất khả kháng.
Việc pháp luật quy định hạn chế quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp của các đối tượng này nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của công ty được thành lập sau này. Nếu những đối tượng được đề cấp đến bên trên tiếp tục thành lập doanh nghiệp mới có thể dẫn tới tình trạng doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản một lần nữa. Mặt khác, chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh trong công ty hợp danh họ phải chịu chế độ trách nhiệm đối với toàn bộ tài san của mình khi hoạt động kinh doanh của công ty. Chính vì vậy, khi mà họ rơi vào tình trạng phá sản sẽ rất khó có khả năng tham gia vào thành lập công ty khác, điều này ảnh hưởng việc thanh toán khoản nợ của họ đối với doanh nghiệp mới bị phá sản .
1.2.2. Về hình thức góp vốn và cách thức góp vốn
1.2.2.1. Về hình thức góp vốn
Theo quan niệm triết học, hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó. Bất cứ sự vật nào cũng có hình thức bề ngoài của nó.
Hình thức góp vốn vào doanh nghiệp chính là phương thức của việc góp vốn là bề ngoài của việc đưa vốn vào làm vốn điều lệ của doanh nghiệp. Hiện nay trên thế giới có nhiều hình thức để góp vốn vào doanh nghiệp như: Góp vốn bằng tài sản, góp vốn bằng tri thức, góp vốn bằng hoạt động hay công việc .
– Góp vốn bằng tài sản: Đây là hình thức góp vốn phổ biến và quan trọng nhất. Bởi lẽ tài sản chính là công cụ và phương tiện chủ yếu để duy trì hoạt động của doanh nghiệp. Tài sản góp vốn có thể thuộc bất kì dạng nào: Vật chất, các quyền vô hình…. với điều kiện các tài sản này phải là các tài sản có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự một cách hợp pháp. Bởi bản thân góp vốn đã là một hành vi chuyển giao tài sản, do đó phải tuân thủ những quy tắc chung có liên quan đến việc chuyển giao tài sản. Có thể chia các hình thức góp vốn ra thành: Góp vốn bằng tiền, góp vốn bằng vật/chất liệu và góp vốn bằng quyền.
– Góp vốn bằng tri thức: Hình thức góp vốn này ngày nay đang trở thành một vấn đề trọng yếu của nền kinh tế công nghiệp và kinh tế hậu công nghiệp hay kinh tế tri thức. Người góp vốn bằng tri thức phải đảm bảo rằng mang tri thức của mình ra phục vụ một cách mẫn cán và trung thực cho lợi ích của công ty, hay còn gọi là cho trái chủ của công ty do chính người đó cam kết lập ra. Tuy nhiên, việc góp vốn bằng tri thức sẽ mang lại khó khăn trên nhiều phương diện như: tính trị giá phần vốn góp để chia sẻ quyền lợi công ty, chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ của người góp vốn. Sự tin tưởng lẫn nhau, hợp tác với nhau có lẽ là một yêu cầu có tính thiết yếu trong nền kinh tế hậu công nghiệp và kinh tế tri thức như hiện nay.
Có lẽ chính bởi lý do này, cho nên Pháp luật Việt Nam chưa quy định hình thức góp vốn bằng tri thức là hình thức góp vốn hợp pháp. Bởi nhiều nguyên nhân cả về lý thuyết cũng như thực tiễn của nền kinh tế nước nhà đó là đất nước vẫn đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa chứ chưa nói đến giai đoạn đi từ nền kinh tế hậu công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
– Góp vốn bằng hoạt động hay công việc: Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, công sức lao động không có gì đặc biệt sẽ khó có thể được đóng góp vào công ty, vì công ty dễ dàng mua được công sức lao động với giá hợp lý mà không phải trả lãi hay chia sẻ quyền lực quản lý của các thành viên khác trong công ty (thông qua các hợp đồng thuê lao động). Có hai trường hợp cần lưu ý: Một là công sức được bỏ ra có thành tố tri thức hoặc kinh nghiệm, hai là người góp vốn bằng công sức được tin tưởng hơn những người khác trong một công ty đối nhân. Giá trị của công sức góp vào công ty rất khó giá trị chính xác bằng tiền. Vì vậy các thành viên tự thỏa thuận về giá trị của nó để bù đắp lại bằng quyền lợi của công ty. Tuy nhiên, việc thỏa thuận này phải đạt được sự thống nhất cao của các thành viên và nó lại không dễ duy trì trong một thời gian dài. Điều này không phù hợp với thực tiễn hoạt động kinh doanh thương mại luôn biến đổi không ngừng qua từng thời kì, giai đoạn.
Tương tự hình thức góp vốn bằng tri thức; hình thức góp vốn bằng hoạt động hay công việc rất khó định giá, định lượng hay chứng minh được bằng vốn góp. Trong khi đó pháp luật Việt Nam đã quy định rõ ràng về vốn góp. Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty – điều này có nghĩa là vốn dùng để tạo thành vốn điều lệ của công ty phải là “tài sản”. Pháp luật Việt Nam quy định việc góp vốn bằng tài sản được thực hiện thông qua các phương thức sau: (Điều 35. Tài sản góp vốn)
1. Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.
2. Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn.
Như vậy, ở nước ta việc góp vốn được thông qua hình thức duy nhất đó là góp vốn bằng tài sản. “Tài sản” ở đây bao gồm :
+ Góp vốn bằng tiền Việt Nam
+ Góp vốn bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi
+ Góp vốn bằng quyền sử dụng đất
+ Góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ:
+ Góp vốn bằng giấy tờ trị giá bằng tiền
Đặc điểm chung của các hình thức góp vốn này đó chính là chúng có thể trị giá được bằng giá trị tiền Việt Nam Đồng và/hoặc có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự một cách hợp pháp. Ví dụ: Mua – bán, tặng cho, thừa kế….
Quy định về hình thức góp vốn bằng tài sản thông qua việt liệt kê các phương thức góp vốn như trên là phù hợp với thực tiễn kinh tế – xã hội của nước ta.
Trước tiên đó là sự phù hợp về đặc điểm kinh tế: Nền kinh tế Công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Việt Nam là nước đang phát triển, đang trên đà đẩy mạnh ứng dụng công nghiệp hiện đại vào thực tiễn, xây dựng nền móng cơ bản để tiến tới nền kinh tế tri thức. Như đã phân tích ở trên, với nền kinh tế còn non trẻ, quy định về hình thức góp vốn chỉ có thể là tài sản chính là bước đệm cơ bản cho hệ thống doanh nghiệp nước nhà. Để phát triển tối ưu mục đích tốt đẹp của quy định này, các doanh nghiệp cần tận dụng tối đa các điều kiện của mình tương ứng với hình thức góp vốn này để đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp, từ đó góp phần xây dựng nền kinh tế hiện đại – văn minh.
Xét cho cùng, nỗ lực của các nhà Lập pháp ở nước ta đã xác định đúng chuẩn mực con đường xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước thông qua thực tiễn góp vốn vào doanh nghiệp như trên. Chỉ bằng quy định nhỏ, đã vạch ra đường lối đúng đắn cho các doanh nghiệp nước ta.
1.2.2.2. Cách thức góp vốn:
Việc góp vốn vào doanh nghiệp là một vấn đề được pháp luật quy định chặt chẽ. Sau khi xác định được hình thức góp vốn bằng tiền Việt Nam đồng, ngoại tệ tự do lưu thông, quyền sở hữu trí tuệ… hay bất kì phương thức nào khác thì các thành viên của doanh nghiệp phải thực hiện góp vốn làm vốn điều lệ của doanh nghiệp trên thực tế. Để đổi lấy quyền lợi khi tham gia góp vốn vào doanh nghiệp, các thành viên góp vốn phải thực hiện chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho doanh nghiệp. Cách chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho doanh nghiệp chính là cách thức góp vốn. Với hình thức góp vốn bằng tài sản như trên, nước ta có các cách thức đưa tài sản vào làm vốn góp như sau:
– Góp vốn bằng cách đưa tài sản trực tiếp vào doanh nghiệp: Đối với mỗi loại tài sản góp vốn khác nhau thì cách thức đưa chúng vào doanh nghiệp lại khác nhau. Sau khi hoàn tất thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản theo quy định, những tài sản góp vốn được sử dụng trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có những tài sản sau khi được định giá bằng tiền có thể được đưa trực tiếp vào sản xuất kinh doanh như: máy móc, phương tiện….để dùng làm công cụ sản xuất. Tuy nhiên, đối với tiền mặt là Việt Nam đồng thì loại tài sản này lại được dùng làm phương tiện để làm vốn sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, như: dùng xây dựng công trình, mua trang thiết bị phục vụ hoạt động của doanh nghiệp….
– Góp vốn bằn cách thức khác: Không phải tất cả các trường hợp góp vốn vào công ty đều từ các thành viên sáng lập của công ty. Việc góp vốn có thể thông qua các cách thức khác như:
+ Nhận chuyển nhượng cổ phần, vốn góp từ cổ đông, thành viên công ty;
+ Nhận thừa kế từ cổ đông, thành viên công ty;
+ Tặng cổ phần, vốn góp từ cổ đông, thành viên công ty.
Thực tiễn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phát sinh nhiều vấn đề về thành viên sang lập doanh nghiệp. Họ có thể chuyển nhượng, tặng cho phần vốn góp của mình trong doanh nghiệp cho người khác. Hoặc thành viên đó có thể mất tích, chết…. Đây đều là những điều có thể xảy ra. Khi rơi vào những trường hợp đó, thành viên góp vốn có thể tùy từng trường hợp để xử lý phần vốn góp của mình sao cho có lợi nhất cho mình và cho công ty; đồng thời họ cũng có thể để lại phần vốn góp của mình thành di sản thừa kế cho những người thừa kế của họ. Đối với những trường hợp này liên quan nhiều đến chế định của luật dân sự về hợp đồng chuyển nhượng và thừa kế.
Xem thêm  QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ KHÁCH HÀNG TẠI TỔNG CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ VIỆT NAM

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *